[giaban] [/giaban]
[tomtat] [/tomtat]
[kythuat]
ÔNG TỔ NGÀNH IN ẤN VÁN GỖ
Nhờ hai lần đi sứ sang Trung Quốc, ông đã học được nghề in ấn
mộc bản ở đây. Khi về nước, ông đã truyền bá nghề này cho nhân dân hai làng Liễu
Tràng, Hồng Lục ở quê ông, khiến nghề in nơi đây trở nên phát triển. Chính vì lẽ
đó, ông đã được coi là ông tổ sáng lập ra nghề in ở Việt Nam
Tuy nhiên, trên thực tế thì nghề in ấn ở Việt Nam đã có từ
lâu đời, ít ra là đã xuất hiện từ đời Nhà Lý. Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục
chép: "Thiền sư Trí Học họ Tô, người làng Chu Minh phủ Thiên Đức vốn làm
nghề khắc bản in kinh. Ông mất ngày năm , vào đời. Hay như đời vua Trần Anh
Tông cho in các sách Phật giáo pháp sư, Đạo trường tân văn, Công văn cách thức
để ban bố cho dân chúng biết. Đến đời Hồ Quý Ly (1400 - 1401) còn cho in an tiền
giấy và phát hành rộng rãi, cho thấy kĩ thuật in ấn đã đạt đến trình độ cao.
Chính vì thế việc coi Lương Như Hộc là người đầu tiên truyền bá nghề in vào Việt
Nam là không đúng. Cũng có thể ông đã dạy dân những cải tiến quan trọng trong
nghề in ấn, giúp nó được phổ biến..
Mặc dù nghề in ấn đã có trước đó, nhưng nó chỉ lưu hành
trong phạm vi Phật giáo và quản lý nhà nước. Nhờ có sự truyền dạy của ông, làng
Liễu Tràng - Hồng Lục đã trở thành trung tâm khắc ván in chữ và sau là tranh khắc
của cả nước. Nhiều bộ sách đã được in khắc ở đây, trong đó phải kể đến bộ Đại
Việt sử ký toàn thư đồ sộ đã được những người thợ làng Hồng Lục, Liễu Tràng khắc
đầy đủ lần đầu tiên vào năm Chính Hòa thứ 18. Để ghi nhận công lao, dân làng Liễu
Tràng đã lập đền thờ, tôn ông làm Thành hoàng và coi là tổ nghề của họ. Hiện
nay vẫn còn ngôi đình thờ Thám hoa ở làng Liễu Tràng, đã được xếp hạng năm
1992, thường tổ chức lễ hội vào ngày 13-15 tháng 9 (âm lịch) hàng năm.
Đầu thế kỷ 20, những nghệ nhân của làng Liễu Tràng đã tham
gia khắc in bộ tranh dân gian gồm 4.577 bức, nhan đề Kĩ thuật của người An Nam
do Henri Oger, một người Pháp, tổ chức. Ngoài vẽ về các nghề dân gian và đời sống
hàng ngày của người Việt Nam, bộ tranh còn có hình các nhân vật lịch sử như
Lương Như Hộc và Kỳ Đồng[15]. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở thành phố
Hồ Chí Minh, nhưng lại bị đặt sai tên là Lương Nhữ Học[16].